Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN lần thứ 22 mới đây đã kết thúc tại Singapore, cũng là khi 10 thành viên ASEAN bắt tay vào giai đoạn nửa sau của chặng đường 100 năm hình thành và phát triển của ASEAN. Sau khi trở thành khối khu vực lâu đời nhất của các nước đang phát triển, đây là thời điểm để đặt ra câu hỏi, ASEAN đã đạt được những thành tựu gì trong lĩnh vực kinh tế?
Khi đánh giá vai trò của khối ASEAN như là một nỗ lực cho tiến trình hội nhập khu vực, người ta thường không tách biệt được các mục tiêu cơ bản của tổ chức này với những mục tiêu trên bề nổi. Rất dễ hiểu khi các nhà phân tích thường cho rằng mục tiêu chính của các hiệp định hợp tác khu vực là để tăng cường sự hội nhập.
Nếu đúng như vậy, các phương pháp định lượng truyền thống về mức độ hội nhập - ví dụ như tỷ lệ giá trị thương mại và đầu tư trong nội khối - sẽ là thước đo thích hợp để đánh giá độ hiệu quả. Và với số liệu này, ASEAN sẽ bị đánh giá là thất bại.
Thương mại nội khối vẫn duy trì ở mức thấp và trì trệ tại mức 25% trong gần hai thập niên vừa qua. Tương tự vậy, chỉ gần một phần năm nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở các nước ASEAN bắt nguồn từ chính khu vực. Tỷ lệ của các dòng vốn đầu tư nội khối khác cũng đã giảm đi.
Nhưng liệu chúng ta có nên đánh giá ASEAN dựa trên những tiêu chí này? Liệu ASEAN có đang theo đuổi những mục tiêu rộng lớn hơn? Phải chăng chủ nghĩa khu vực chỉ là một phương tiện để hướng đến một mục đích lớn hơn?
Khối ASEAN thực sự đang theo đuổi các mục tiêu rộng lớn hơn. Việc triển khai thực hiện hiệp định Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) là một dẫn chứng rõ ràng. Các nước thành viên của ASEAN đã sử dụng hiệp định này như một bước đệm để thúc đẩy tiến trình tự do hóa sâu rộng hơn, và từ đó thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa.
Mở cửa thương mại với tất cả
Bằng chứng nằm ở quyết định có chủ đích của các quốc gia thành viên khi đưa ra mức thuế ưu đãi cho các nước không phải là thành viên ASEAN trên cơ sở nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). Điều này nghĩa là, khi một quốc gia là thành viên của ASEAN, thì họ mở cửa thương mại không chỉ với các thành viên trong khối mà còn đối với tất cả quốc gia khác.
Hơn 90% dòng thuế của các nước ASEAN có mức ưu đãi bằng 0, trong đó mức thuế ưu đãi không thấp hơn mức MFN. Hơn 70% thương mại nội khối được tiến hành ở mức thuế xuất MFN bằng 0. Các nước ASEAN hiếm khi sử dụng các ưu đãi này.
Việc đa dạng hóa các chính sách ưu đãi đã làm giảm thiểu tác động từ các hiệu ứng chuyển dịch thương mại làm giảm phúc lợi xã hội, và một phần là nhờ vàotỷ lệ thương mại trong khu vực thấp trì trệ. Vì thế, đây là dấu hiệu cho thấy sự thành công, chứ không phải thất bại.
Phần lớn các hoạt động thương mại nội khối là các giao dịch liên quan đến những bộ phận, thành phần sản phẩm trong các chuổi cung ứng. Các bộ phận này hầu hết được vận chuyển xuyên biên giới mà không phải đóng thuế nhờ vào các thoả thuận về những sản phẩm cụ thể như thoả thuận về công nghệ thông tin của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) hoặc các hợp đồng chung như các đề án hoàn thuế, kho ngoại quan hay các đặc khu kinh tế.
Mặc dù các giao dịch đa phương đã lấn át hoạt động thương mại nội khối, nhưng tổng thể thì nó đã thúc đẩy tăng trưởng nhanh hơn. ASEAN là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư trên thế giới, chỉ đứng sau Liên minh châu Âu, Bắc Mỹ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Mặc dù khối ASEAN chỉ chiếm 3.3% GDP toàn cầu, nhưng nó tạo ra hơn 7% kim ngạch xuất khẩu. Nếu thương mại nội khối tăng lên trong tương lai, nó sẽ được thúc đẩy bởi các yếu tố khác ngoài ưu đãi. Việc cắt giảm các hàng rào phi quan thuế (NTBs), theo một cách không phân biệt đối xử, có tiềm năng giúp gia tăng thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Các rào cản phi thuế quan trong hoạt động thương mại đã tăng từ 1634 lên 5975 NTBs trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015 – và việc đảo ngược quá trình này chính là thách thức mới cho ASEAN.
Khó tháo dỡ
NTBs không chỉ có khả năng hạn chế cao hơn so với rào cản thuế quan, mà còn có tính chất không rõ ràng và khó tháo dỡ hơn. Ngoài ra, các NTB còn có thể biến đổi liên tục, chúng có thể chuyển hóa thànhcác hình thức mới ngay khi những dạng cũ bị tháo dỡ.
Mặc dù NTBs có thể khó xác định, khó theo dõi và tháo dỡ hơn, nhưng điều này không làm giảm đi hiệu quả của các chiến lược đa phương. Không giống như thuế quan, việc trao đổi nhượng bộ trong NTBs thì khó khăn và tốn kém hơn, vì tính chất "hàng hoá công cộng" của rất nhiều cải cách cần thiết và sự dễ dàng đi lại tự do.
Đa phương hóa vẫn là giải pháp tốt nhất của ASEAN để giải quyết vấn đề và mang lại những lợi ích to lớn nhất.
Trong thiết kế ban đầu của Khu vực Đầu tư ASEAN, khối này đề cập đến ý tưởng chỉ ưu đãi đối với các nhà đầu tư từ các nước thành viên. Tuy nhiên, ASEAN nhanh chóng từ bỏ ý tưởng và khẳng định lại cam kết của mình đối với một môi trường đầu tư nước ngoài không phân biệt đối xử và mở cửa, giống như cơ chế hiện nay của mỗi quốc gia thành viên.
Dòng vốn FDI đã đổ mạnh vào khu vực, thậm chí khi mà dòng chảy vốn giữa các nước trong ASEAN không có nhiều thay đổi. Cũng như trong lĩnh vực thương mại, việc dòng vốn FDI bắt nguồn từ đâu là không quan trọng, mà vấn đề cần quan tâm là khối lượng và hình thức của nó. Sự chuyển đổi kinh tế to lớn trong các quốc gia thành viên của ASEAN sẽ không thể có được nếu họ chọn con đường chính sách ưu đãi.
Đó là thành tựu tiêu biểu nhất của ASEAN và đó là tiêu chí mà chúng ta nên dùng để đánh giá tổ chức này..
Nguồn: Myanmar Times
Từ khóa: hội nhập khu vực, ASEAN, tự do hóa thương mại và đầu từ, đa phương hóa, toàn cầu hóa
Các tin khác
- Bộ trưởng Bộ Công thương Singapore S. Iswaran nhận định về tương lai kinh tế ASEAN và tầm nhìn của Singapore đối với kinh tế kỹ thuật số - 05/04/2018
- Về lâu dài, ASEAN vẫn giữ một tầm quan trọng trong chiến lược của Hoa Kỳ. - 31/03/2018
- ASEAN có thể tiếp tục cải thiện an ninh mạng trong khu vực và trên thế giới? - 30/03/2018
- Hiệp định thương mại điện tử ASEAN - mạng lưới đổi mới giúp doanh nghiệp Singapore có cơ hội phát triển - 30/03/2018
- 4 thách thức cho quan hệ Australia-ASEAN - 20/03/2018