Công ty cho thuê sân khấu tổ chức sự kiện uy tín tại Hà Nội. Công ty cho thuê backdrop uy tín tại Hà Nội - nhiều mẫu mã đẹp. Dịch vụ chữa tắc tia sữa tại nhà, cam kết hiệu quả 100%. Công ty cung cấp, cho Thuê người đại diện cưới hỏi toàn quốc.

Menu
HẬU COVID-19Việt NamXu hướng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sau đại dịch Covid-19 và một số đề xuất cho Việt Nam

Xu hướng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sau đại dịch Covid-19 và một số đề xuất cho Việt Nam

Đại dịch Covid-19 xảy ra đã tạo nên một khoảng hoảng nghiêm trọng chưa từng có, ảnh hưởng tiêu cực đến rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế thế giới nói chung, trong đó có dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Forein Direct Investment). Dòng vốn FDI vào Việt Nam cũng không ngoại lệ, trong năm 2020, vốn FDI đăng ký mới giảm 25% so với năm 2019. Bài viết phân tích thực trạng dòng vốn FDI toàn cầu năm 2020 và xu hướng năm 2021. Sau đó trình bày về thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 2020 và quý I năm 2021, đánh giá những cơ hội và thách thức trong việc thu hút FDI ở Việt Nam trong thời gian tới, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm tăng cường dòng vốn FDI vào Việt Nam thời kỳ hậu Covid-19.

1. Đặt vấn đề

Đại dịch Covid-19 xảy ra đã tạo nên một khoảng hoảng nghiêm trọng chưa từng có, ảnh hưởng tiêu cực đến rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế thế giới nói chung, trong đó có dòng vốn đầu tư trực tiếp nước. Theo báo cáo của UNCTAD (Hội nghị Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển), năm 2020, dòng vốn FDI toàn cầu sụt giảm tới 42% và dự báo sẽ tiếp tục sụt giảm 5-10% trong năm 2021. Báo cáo của UNCTAD nêu rõ nếu FDI toàn cầu bị thu hẹp trong một thời gian dài, hậu quả đối với các nước đang phát triển sẽ hết sức nặng nề và nghiêm trọng. Dòng vốn FDI không chỉ thúc đẩy doanh thu xuất khẩu ở các nước đang phát triển mà còn tạo ra nhiều việc làm, tác động tích cực hơn đến phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất. Tại Việt Nam, vốn FDI có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Do sự tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19, vốn FDI vào Việt Nam năm 2020 đã có sự sụt giảm. Vì vậy, việc đánh giá xu hướng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới cũng như thực trạng thu hút FDI ở Việt Nam thời gian đại dịch là cần thiết, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm khơi thông được dòng vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.

2. Thực trạng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu năm 2020 và xu hướng thời gian tới

Đại dịch Covid-19 đã khiến cho dòng vốn giảm mạnh tới 42% trong năm 2020 so với năm 2019[1], từ 1.500 tỷ USD xuống chỉ còn 859 tỷ USD. Cần lưu ý rằng, đây là mức thấp nhất kể từ những năm 1990, thấp hơn tới 30% so với giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009. Tuy nhiên, sự giảm sút này không đồng đều giữa các quốc gia, khu vực, nhóm nền kinh tế (Hình 1).

Các nước phát triển có sự sụt giảm mạnh nhất, giảm tới tới 69%, chỉ còn 229 tỷ USD. Trong đó, khu vực Bắc Mỹ giảm tới 46%, chỉ còn 166 tỷ USD. Vốn FDI vào Mỹ giảm tới 49%. Sự giảm sút vốn đầu tư mới tập trung trong lĩnh vực thương mại bán buôn, các dịch vụ tài chính và chế biến chế tạo. Đồng thời, hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) xuyên quốc gia từ các nhà đầu tư ngoài Mỹ giảm 41%. Khu vực châu Âu cũng có sự sụt giảm mạnh về dòng vốn FDI, giảm tới 71% so với năm 2019, thậm chí FDI tại Anh giảm xuống còn bằng 0. Chiều ngược lại, cũng có một số quốc gia châu Âu lại có sự tăng lên đáng kể trong dòng vốn FDI, ví dụ như trường hợp của Thụy Điển (tăng hơn gấp 2 lần từ 12 tỷ USD lên 29 tỷ USD), hay Tây Ban Nha cũng tăng tới 52% so với năm 2019. Vốn FDI vào Úc năm 2020 giảm 46%, xuống còn 22 tỷ USD. Trong khi FDI ghi nhận tăng ở một số quốc gia, ví dụ như Israel (tăng từ 18 lên 26 tỷ USD) hay Nhật Bản (tăng từ 15 lên 17 tỷ USD).

lan 1

Tại các nước đang phát triển, mức giảm vốn FDI năm 2020 chỉ là 12%, xuống còn 616 tỷ USD. Tốc độ giảm ở các khu vực là không đồng đều. Các nước đang phát triển ở châu Mỹ La Tinh giảm 37%, trong đó ở châu Phi là 18%, các nước đang phát triển ở châu Á chỉ giảm 4%.

Vốn FDI vào Trung Quốc tăng 4%, lên 163 tỷ USD, chủ yếu đầu tư vào công nghiệp công nghệ cao (tăng tới 11%), các hoạt động M&A xuyên quốc gia tăng 63%, chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ thông tin và dược phẩm. Với sự tăng trưởng này, Trung Quốc đã vượt Mỹ để trở thành nước nhận vốn FDI cao nhất toàn cầu. Sở dĩ Trung Quốc vẫn có sự tăng trưởng vốn FDI trong khi FDI có sự sụt giảm mạnh toàn cầu là do Trung Quốc vẫn giữ được mức tăng trưởng dương 2,3%, sớm kiểm soát được dịch bệnh, đồng thời chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều các chương trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ấn Độ cũng có mức tăng trưởng dương trong thu hút vốn FDI, tăng tới 13%, chủ yếu trong lĩnh vực kỹ thuật số.

Các nước ASEAN có sự giảm tương đối, tới 31% luồng vốn FDI, chỉ còn 107 tỷ USD trong năm 2020 và có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia. Philippines tăng trưởng dương tới 29% bất chấp sự tác động nặng của dịch bệnh và sự giảm mạnh trong tốc độ tăng trưởng kinh tế. Indonesia bị sụt giảm 24% xuống chỉ còn 18 tỷ USD. Malaysia trải qua sự sụt giảm trong luồng vốn FDI tồi tệ nhất trong khối ASEAN, giảm tới 68%, lý do đến từ sự bất ổn chính trị và các quy định hạn chế đi lại để ứng phó với đại dịch. Thái Lan cũng là nước chịu ảnh hưởng tiền tệ thứ hai trong khối, giảm tới 50%. Singapore, là một trung tâm tài chính khu vực, theo truyền thống, là nước được hưởng dòng vốn FDI lớn hơn so với các nước khác trong khu vực, nhưng đại dịch Covid và sự sụt giảm trong các hoạt động kinh tế toàn cầu đã làm FDI vào Singapore co hẹp tới 37%, xuống chỉ còn 58 tỷ USD. Sự sụt giảm trong dòng vốn FDI của Singapore chủ yếu đến từ việc giảm 86% trong hoạt động M&A xuyên quốc gia.

UNCTAD dự báo rằng tình hình vốn FDI trong năm 2021 sẽ vẫn tiếp tục bị suy giảm từ 5-10% do sự không chắc chắn trong diễn biến đại dịch Covid, ngoại trừ lĩnh vực công nghệ và chăm sóc sức khỏe.

3. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ năm 2018 đến nay

Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Vốn FDI thực hiện bình quân giai đoạn 2016-2019 chiếm trên 23% trong tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội; tỉ trọng bình quân GDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2016 - 2019 chiếm 19,8% trong tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế; thu hút gần 5 triệu lao động; tạo ra lợi nhuận cao nhất khi chiếm tới trên 42% trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp.

Trong năm 2020, do tác động nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 mà dòng vốn FDI vào Việt Nam bị sụt giảm sau khi bùng nổ vào năm 2019 (với tổng số đăng ký lên tới 38,02 tỷ USD). Trong năm 2020, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 19,98 tỷ USD, bằng 98% so với cùng kỳ năm 2019, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28,53 tỷ USD, bằng 75% so với cùng kỳ năm 2019. Trong năm 2020, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 ngành lĩnh vực, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt 13,6 tỷ USD, chiếm 47,7% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Dòng vốn FDI vào Việt Nam năm 2020 có sự sụt giảm, tuy nhiên, trong năm 2021 được kỳ vọng sẽ gia tăng trở lại. Theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh trong 3 tháng đầu năm 2021. Cụ thể là, tính đến ngày 20/3, tổng số vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 10,13 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. Đây là một con số rất ấn tượng, bởi vì cả năm 2020 tổng vốn FDI của cả nước mới chỉ đạt gần 29 tỷ USD. Bên cạnh đó, vốn thực hiện của dự án FDI ước đạt 4,1 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ (Bảng 1).

Lĩnh vực dẫn đầu trong thu hút FDI vào Việt Nam 3 tháng đầu năm 2021 vẫn là công nghiệp chế biến, chế tạo với tổng vốn đầu tư đạt gần 5 tỷ USD, chiếm gần 50% tổng vốn đầu tư đăng ký. Có 56 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam trong 3 tháng đầu năm. Singapore đứng đầu với tổng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam đạt gần 4,6 tỷ USD, chiếm gần 45,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.

lan 2

Trong 3 tháng đầu năm 20201, sự chuyển tiếp giữa Luật Đầu tư 2014 và Luật Đầu tư 2020 đã ảnh hưởng tới tình hình cấp mới, điều chỉnh các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Bên cạnh đó, dịch Covid-19 bùng phát trở lại ở nhiều quốc gia và tại Việt Nam cũng làm ảnh hưởng tới việc đi lại cũng như các quyết định đầu tư mới và mở rộng dự án của các nhà đầu tư. Vì vậy, số dự án cấp mới, điều chỉnh vốn cũng như góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục giảm so với cùng kỳ, song mức độ giảm đã được cải thiện.

Điều đáng mừng, không chỉ là con số ấn tượng mà chính là chất lượng dòng vốn FDI. Nhiều dự án đầu tư lớn đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam trong những tháng đầu năm 2021, làm giá trị vốn đăng ký mới trung bình trên một dự án tăng lên đến 30,87 triệu USD. Các dự án này lại chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ cao, trong đó có dự án 270 triệu USD với mục tiêu sản xuất, gia công máy tính bảng và máy tính xách tay tại Bắc Giang của Foxconn, dự án công nghệ tế bào quang điện JA Solar PV Việt Nam, vốn đầu tư 210 triệu USD hay dự án LG Display Hải Phòng tăng vốn thêm 750 triệu USD.

4. Những cơ hội và thách thức trong thu hút vốn FDI của Việt Nam hậu đại dịch Covid-19

4.1. Cơ hội trong thu hút vốn FDI

Thứ nhất, Việt Nam là một trong những quốc gia đạt được thành công kép cả trong kiểm soát dịch bệnh và tăng trưởng kinh tế. Kiểm soát tốt dịch bệnh đã giúp Việt Nam nhanh chóng khôi phục các hoạt động kinh tế trong nước cũng như thương mại xuyên quốc gia trở thành một điểm cộng rất lớn của Việt Nam trong thu hút vốn FDI. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo bất chấp ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19, tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn có thể đạt được mức 6,5% nhờ nền tảng vững vàng và những giải pháp quyết liệt cả về kinh tế và y tế của Chính phủ. Trong báo cáo Triển vọng kinh tế châu Á quý 2 năm 2021, Ngân hàng HSBC đã dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2021 là 6,6%, lạm phát được giữ ổn định ở mức 3%. Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có triển vọng tăng trưởng tốt ở châu Á. Nhận định tương tự đến từ UOB[2], thậm chí mức dự báo tốc độ tăng trưởng còn cao hơn, đến 7,1% trong năm 2021.

Theo báo cáo kết quả khảo sát thực trạng của các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại nước ngoài được Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) công bố vào tháng 2/2021, có gần 47% doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam cho biết sẽ mở rộng sản xuất - kinh doanh trong vòng 1-2 năm tới. Đáng chú ý, tỷ lệ doanh nghiệp mở rộng chức năng bán hàng và sản xuất hàng hóa thông dụng ở mức cao so với các quốc gia, khu vực khác (khoảng 50%). Ngoài ra, có 16,4% doanh nghiệp cho biết sẽ tăng cường đầu tư thiết bị, đầu tư mới trong thời gian tới. Trước đó, Báo cáo khảo sát tâm lý kinh doanh lần thứ 6 của Hội đồng Kinh doanh EU - ASEAN công bố vào tháng 10/2020 cho thấy, mặc dù có sự sụt giảm về cảm nhận tích cực đối với môi trường kinh doanh tại ASEAN, song 72% doanh nghiệp EU khảo sát đang ở Việt Nam cho biết vẫn có kế hoạch mở rộng hoạt động kinh doanh. Trong đó, sự hài lòng về cách thức ứng phó với Covid-19 của Chính phủ là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến cộng đồng doanh nghiệp EU tự tin về kế hoạch mở rộng đầu tư tại Việt Nam.

Thứ hai, khi đại dịch Covid - 19 xảy ra, đã xuất hiện tình trạng “đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu”. Để tránh tình trạng này lặp lại, các nước cũng có xu hướng đa dạng hóa địa điểm đầu tư nhằm phân tán rủi, không đầu tư tập trung vào Trung Quốc như trước nữa. Trong số các nước được xem xét chuyển hướng đầu tư, Việt Nam có những lợi thế nhất định về mặt vị trí địa lý, gần với Trung Quốc. Vị trí địa lý của Việt Nam không những thuận lợi cho nước ta trong các giao dịch kinh tế quốc tế, mà còn tạo cơ hội cho Việt Nam trở thành trung tâm kết nối của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và kết nối khu vực này với các nền kinh tế ở khu vực phía Tây bán đảo Đông Dương. Bên cạnh đó, Việt Nam có nhiều thuận lợi trong giao thương toàn cầu, do có thể xây dựng và phát triển các cảng nước sâu khi sở hữu trên 3.000 km bờ biển. Theo kết quả của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản Jetro vào năm 2020 khảo sát 122 doanh nghiệp, Việt Nam nằm đầu danh sách thu hút đầu tư, với 42,3% doanh nghiệp lựa chọn đầu tư tại Việt Nam, xếp trên Thái Lan (20,6%), Philippines (18,6%) và Indonesia (16,5%).

Thứ ba, Việt Nam có lợi thế nhờ ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) với nhiều đối tác. Việt Nam đã đàm phát để ký kết được 15 FTA. Trong đó, có 3 hiệp định quan trọng và mới ký gần đây là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Để ký kết các hiệp định thương mại này, Việt Nam đã có những thay đổi tích cực trong cải thiện thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh,… và nhờ đó tạo sức hấp dẫn lớn hơn trong thu hút FDI. Ngoài ra, nhờ có thuế suất thấp nên sẽ thu hút đầu tư của các nước khác để tận dụng mức thuế suất thấp này. Tuy nhiên, đây là lợi thế trong ngắn hạn và Việt Nam cần tận dụng “thời gian vàng” khi các nước trong khối vẫn chưa có FTA với EU để thu hút FDI nhiều hơn. Theo nghiên cứu của UOB (2021), Hiệp định thương mại RCEP sẽ chất xúc tác khác cho triển vọng thu hút FDI của khu vực ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Các nước thành viên của hiệp định RCEP đã thu hút tới 37% dòng vốn FDI toàn cầu vào năm 2020, vượt xa các nhóm khác. RCEP cũng được tích hợp sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, chiếm tới 26% khối lượng thương mại của thế giới. Ngoài ra, dân số và thu nhập ngày càng tăng của các nước ASEAN là động lực cho đầu tư vào khối này.

4.2. Những thách thức trong việc thu hút vốn FDI vào Việt Nam

Bên ngoài nước, các thị trường khác như Ấn Độ, các nước khác trong khối ASEAN cũng đang nổi lên là nơi thu hút FDI, tạo ra sự cạnh tranh thu hút dòng vốn FDI. Ấn Độ với ưu thế là một thị trường rộng lớn, chi phí nhân công rẻ, Chính phủ Ấn Độ cũng đưa ra rất nhiều chính sách để thu hút vốn FDI. Năm 2020, trong khi đa phần thế giới đều gặp phải tình trạng sụt giảm trong dòng vốn FDI thì Ấn Độ tăng trưởng tới 13%. Ngoài ra, sự không chắc chắn về khả năng kiểm soát dịch bệnh Covid trên toàn thế giới cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng mạnh đến dòng vốn FDI toàn cầu.

Ở trong nước, mặc dù môi trường đầu tư và năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng hoàn toàn được yêu cầu của các nhà đầu tư quốc tế. Nhiều doanh nghiệp FDI vẫn than phiền về những bất cập trong môi trường đầu tư như thủ tục hành chính rườm rà, hạ tầng và công nghiệp phụ trợ yếu kém, lạm phát gia tăng,… Theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2020, có tới 59% doanh nghiệp có công trình xây dựng trong 2 năm gần đây gặp khó khăn khi thực hiện các thủ tục liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng. Chất lượng nguồn lao động cũng là một hạn chế lớn trong việc thu hút vốn FDI. Theo thống kê, có tới 39,86% doanh nghiệp FDI đang thiếu hụt lao động, nhiều công ty phải mất 1-2 năm đào tạo lại lực lượng lao động. Trong thời gian tới, việc thu hút vốn FDI được xác định là ưu tiên những dự án công nghệ cao, đòi hỏi chất lượng nguồn nhân lực lại càng cao hơn.

5. Một số đề xuất nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam thời gian tới

Với bối cảnh kinh tế, xã hội, chính trị thế giới thay đổi sâu sắc và hệ lụy do đại dịch Covid-19 mang lại, việc thu hút FDI ở nước ta trong thời gian tới cần tiếp tục có những thay đổi về chiến lược, chính sách.

Một là, chúng ta tiếp tục chính sách định hướng thu hút đầu tư FDI có chọn lọc. Thu hút FDI phải đặt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, đặc biệt phải quy định rõ những ngành nào, lĩnh vực nào cần ưu tiên thu hút FDI trên nguyên tắc những ngành và lĩnh vực doanh nghiệp trong nước có khả năng làm được thì không kêu gọi đầu tư nước ngoài.

Để khôi phục kinh tế sau đại dịch sẽ cần một nguồn lực đáng kể. Dòng vốn FDI là một trong các nguồn lực quan trọng đó. Do vậy, Chính phủ cần rà soát và bổ sung các quy định, điều kiện để thu hút, duy trì và sàng lọc các khoản đầu tư hiệu quả. Do khu vực công nghiệp phụ trợ còn non yếu, giai đoạn 2021-2030, Chính phủ cần khuyến khích, tạo điều kiện cho các dự án FDI đầu tư và sản xuất tại Việt Nam theo hình thức liên doanh với doanh nghiệp trong nước để doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận trực tiếp công nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại và tri thức kinh doanh tin cậy. Ưu tiên các nhà đầu tư lớn, dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.

Hai là tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật; sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục, điều kiện đầu tư. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tinh gọn bộ máy, quy định rõ ràng trách nhiệm của từng bộ phận, từng khâu, đặc biệt trong các lĩnh vực liên quan đến cấp giấy phép kinh doanh, giấy phép lao động, quản lý thị thực, thủ tục hải quan, thuế,…

Ba là, cải thiện cơ sở hạ tầng. Bên cạnh việc thúc đẩy các dự án đầu tư công nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, giúp các khu công nghiệp được hưởng lợi trong dài hạn, cần biến các nhu cầu đầu tư mở rộng và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng của Việt Nam thành cơ hội thu hút các dự án FDI chất lượng cao trong lĩnh vực này. Ðồng thời, cần chủ động vượt qua các thách thức trong thu hút FDI chất lượng cao, như sự hạn chế của quỹ đất sạch và cơ sở hạ tầng - cảng biển, hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, hệ thống kho… Việt Nam cần tập trung chuẩn bị mặt bằng, nhất là tại các khu công nghiệp để sẵn sàng đón dự án FDI bên cạnh sự đồng bộ về hạ tầng giao thông, khả năng cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc,…

Bốn là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khuyến khích hoạt động nghiên cứu, đầu tư khoa học công nghệ tại doanh nghiệp. Tăng cường công tác đào tạo tại doanh nghiệp, bao gồm đào tạo tại chỗ, đào tạo lồng ghép,… Thực hiện tốt công tác hướng nghiệp cho sinh viên để sinh viên thực sự chọn được nghề nghiệp theo khả năng và sở thích, tránh hiện tượng thừa thầy thiếu thợ. Đối mới chương trình giáo dục, gắn lý thuyết với thực hành, gia tăng sự liên kết giữa các trường đại học và doanh nghiệp để đào tạo được những người lao động có đầy đủ kỹ năng, trình độ đáp ứng được nhu cầu nhân lực trong thời đại mới.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

[1] UNCTAD (2021), Investment Trends Monitor, truy cập tại địa chỉ https://unctad.org/system/Yles/oZcial-document/diaeiainf2021d1_en.pdf

[2] UOB - United Overseas Bank Limited là ngân hàng Singapore, là một trong những ngân hàng lớn và uy tín nhất châu Á với mạng lưới toàn cầu gồm hơn 500 văn phòng tại 19 quốc gia và vùng lãnh thổ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Suan Teck Kin (2021), ASEAN: FDI inflows declined in 2020 but RCEP to be the next impetus, truy cập tại địa chỉ https://www.uobgroup.com/asean-insights/markets/fdi-inflows-declined-in-2020.page?path=data/ai/33&cr=segment
  2. UNCTAD (2021), Investment Trends Monitor, truy cập tại địa chỉ https://unctad.org/system/Yles/oZcial-document/diaeiainf2021d1_en.pdf
  3. UOB (2021), Global Economics & Markets Research.
  4. Cổng thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, truy cập tại địa chỉ mpi.gov.vn

THS. NINH THỊ HOÀNG LAN (Trường Đại học Thương mại)

Nguồn: Tạp chí Công Thương

Từ khóa: thách thức, khả năng thu hứt, vốn đầu tư trực tiếp, thúc đẩy, dự án đầu tư công

 

 

Hậu Covid-19

Menu

Chuyên mục RCEP

Menu

Thư viện hội nhập

thu vien

Video

Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field

Liên kết

 

Lượt truy cập

007370496
Go to top