Công ty cho thuê sân khấu tổ chức sự kiện uy tín tại Hà Nội. Công ty cho thuê backdrop uy tín tại Hà Nội - nhiều mẫu mã đẹp. Dịch vụ chữa tắc tia sữa tại nhà, cam kết hiệu quả 100%. Công ty cung cấp, cho Thuê người đại diện cưới hỏi toàn quốc.

Menu
Phân tích - Bình luậnHội nhập kinh tế quốc tếChủ nghĩa “bảo hộ” của Hoa Kỳ vẫn là chìa khóa cho kinh tế Đông Á

Chủ nghĩa “bảo hộ” của Hoa Kỳ vẫn là chìa khóa cho kinh tế Đông Á

Các chính sách thương mại theo chủ nghĩa bảo hộ và việc thiếu một chương trình nghị sự kinh tế cho Đông Á và Đông Nam Á đã trở thành chủ đề trung tâm trong những lời chỉ trích về chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực và cách tiếp cận của họ đối với việc quản lý ‘chiến lược cạnh tranh’ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

china market

Theo các báo cáo này, chủ nghĩa bảo hộ của Hoa Kỳ làm suy yếu sức hút kinh tế của nước này ở Đông Á - và đòn bẩy chính trị bắt nguồn từ đó - vào thời điểm mà nền kinh tế nước này đã bị xói mòn do sự phụ thuộc ngày càng tăng vào thương mại Trung Quốc, đầu tư và các thể chế khu vực như Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Thay vào đó, Hoa Kỳ nên áp dụng chính sách ngoại giao kinh tế cởi mở, quay trở lại Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và cho phép các nhà xuất khẩu trong khu vực tiếp cận thị trường nhiều hơn.

Từ quan điểm của Hoa Kỳ, việc hạn chế mở cửa kinh tế đối với Trung Quốc là cần thiết để bảo vệ cơ sở công nghiệp của họ, giảm bớt sự phụ thuộc vào nhập khẩu trong các lĩnh vực quan trọng và giảm thiểu khả năng Trung Quốc vũ khí hóa sự phụ thuộc lẫn nhau. Nhưng các hạn chế xuất khẩu, áp dụng trừng phạt thuế quan và các chính sách công nghiệp nhằm làm xói mòn thị phần của các công ty châu Á được khu vực Đông Á coi là bất lợi cho ‘trật tự quốc tế dựa trên luật lệ’ và sự thịnh vượng của khu vực này.

Tuy nhiên, các chính sách hiện tại của Hoa Kỳ không tệ hơn các chính sách được theo đuổi trong quá khứ đối với các nền kinh tế Đông Á mới nổi. Thâm hụt thương mại dai dẳng của Hoa Kỳ với Đông Á cũng đảm bảo rằng nước này vẫn là một đối tác kinh tế và người bảo đảm an ninh hết sức quan trọng trong khu vực.

Vai trò của các hiệp định thương mại tự do (FTAs) trong việc thúc đẩy dòng chảy thương mại và đầu tư ở Đông Á là chủ đề tranh luận trong nhiều thập kỷ. Những người chỉ trích chủ nghĩa khu vực Đông Á từ lâu đã lập luận rằng hội nhập 'lỏng lẻo hơn' mà ASEAN và các đối tác theo đuổi mang lại lợi ích kinh tế ít ỏi. Các nghiên cứu thực nghiệm gần đây điều tra về tác động của các FTA khu vực cho thấy nhiều vấn đề khác nhau - FTA có xu hướng tăng cường thương mại đối với các nước kém phát triển nhưng lại có tác động rất nhỏ đối với các nền kinh tế có thu nhập trung bình và cao.

Mặc dù mức độ tự do hóa theo CPTPP quan trọng hơn nhiều, nhưng đó không phải là một đề nghị rộng lượng về tiếp cận thị trường ‘tự do’ mà là kết quả của một cuộc mặc cả khó khăn do Hoa Kỳ thúc đẩy. Tương tự, Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF) cũng nhằm mục đích thúc đẩy các quy định có lợi cho Hoa Kỳ.

Nhưng ngoại giao thương mại Hoa Kỳ - Đông Á thường tập trung vào việc bảo vệ các lợi ích kinh tế hạn hẹp của nược này. Xung đột thương mại với Nhật Bản trong những năm 1980, ‘những hạn chế tự nguyện’ đối với ngành công nghiệp bán dẫn của Đài Loan và Hàn Quốc từ những năm 1990, cách tiếp cận của Hoa Kỳ đối với giải pháp khu vực cho cuộc khủng hoảng tài chính châu Á và việc gia nhập WTO đầy tranh cãi của Trung Quốc đều chứng minh điều này.

Tuy nhiên, chủ nghĩa bảo hộ cũng đã được chứng minh là vô ích trong quá khứ. Một lý do cho điều này là sự lớn mạnh của mạng lưới sản xuất khu vực lấy Trung Quốc làm trung tâm. Chính sách thương mại của Hoa Kỳ có thể làm suy yếu những điều này, nhưng nó không thể thay đổi đáng kể nền kinh tế hỗ trợ chúng và khả năng phục hồi sản xuất của Hoa Kỳ vẫn rất khó xảy ra. Do đó, khả năng cô lập Trung Quốc trong mạng lưới sản xuất chế tạo là rất hạn chế.

Một lý do khác liên quan đến mô hình tiêu dùng và tiết kiệm. Hoa Kỳ sẽ vẫn là thị trường trọng điểm của khu vực chừng nào mà nước này tiêu thụ nhiều hơn sản xuất và tiết kiệm rất ít, trong khi các nền kinh tế Đông Á thì ngược lại. Đại dịch COVID-19 đã củng cố mô hình này khi Trung Quốc phản ứng bằng các biện pháp thúc đẩy sản xuất từ ​​phía cung, trong khi Hoa Kỳ nâng cao mức tiêu thụ bằng các chính sách từ phía cầu. Trung Quốc kết thúc với thặng dư thương mại kỷ lục nhưng ngược lại Hoa Kỳ lại thâm hụt kỷ lục. Hình ảnh một nước Hoa Kỳ theo chủ nghĩa bảo hộ và một Trung Quốc cởi mở không phù hợp với thực tế.

Tuy nhiên, chiến lược phát triển của nhiều quốc gia trong khu vực dựa trên việc tham gia mạng lưới sản xuất khu vực. Những công ty này chủ yếu hoạt động để đáp ứng nhu cầu của Hoa Kỳ và Châu Âu bằng cách sử dụng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Châu Âu. RCEP và một hệ thống khu vực lấy Trung Quốc làm trung tâm chỉ có thể cung cấp một giải pháp thay thế hệ thống này nếu đi kèm là cung cấp thêm nhu cầu và vốn.

Nhưng Trung Quốc đưa ra những tín hiệu trái ngược. Mục tiêu lâu dài là nâng cao tiêu dùng trong nước sẽ mang lại cơ hội thị trường, nhưng khái niệm về lưu thông kép cho thấy rằng trách nhiệm sẽ là đáp ứng nó bằng nguồn cung trong nước. Việc tham gia vào chuỗi giá trị của các công ty công nghệ Trung Quốc sẽ mang lại phần thưởng cho các nhà cung cấp trong khu vực, tuy nhiên Trung Quốc cũng tuyên bố sự tự lực về công nghệ, che mờ những triển vọng này. Nguồn tài trợ của Trung Quốc rất quan trọng đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng khu vực, tuy nhiên các dự án thường gặp trục trặc và nguồn vốn gần đây đã cạn kiệt .

Việc thực hiện các chính sách đối nội này của Trung Quốc sẽ quyết định tương lai của cấu trúc kinh tế Đông Á. Nếu các nhà lãnh đạo khu vực kỳ vọng thị trường Trung Quốc sẽ phát triển với tốc độ nhanh hơn, thì vị thế của Hoa Kỳ trong khu vực sẽ suy yếu nghiêm trọng. Nhưng Hoa Kỳ có thể giảm thiểu tổn thất về uy tín - bắt nguồn từ việc nước này không quan tâm đến phúc lợi của Đông Á - nếu có thể thuyết phục khu vực rằng thị trường của họ sẽ vẫn mở cho hàng xuất khẩu của châu Á và tham vọng đàm phán lại trật tự kinh tế khu vực của họ bị hạn chế về phạm vi và bản chất phòng thủ.

Trong khi các cân nhắc về chính trị trong nước và an ninh quốc gia có thể ngăn cản việc quay trở lại CPTPP và hạn chế tham vọng của IPEF, Hoa Kỳ cũng có thể lập luận rằng việc hạn chế tiếp xúc với Trung Quốc thông qua ‘kết bạn’ có lợi cho khu vực. Dữ liệu của OECD về thương mại giá trị gia tăng chỉ ra rằng hơn một nửa giá trị gia tăng của Đông Á trong các sản phẩm tiêu thụ ở Hoa Kỳ được sản xuất tại Trung Quốc, trong khi chưa đến 1/5 trong số đó đến từ ASEAN. Việc lật ngược quy mô có lợi cho ASEAN cũng có thể làm giảm bớt lo ngại về việc Hoa Kỳ rút khỏi khu vực.

Nguồn: East Asia Forum

Từ khóa: kinh tế, Hoa Kỳ, Đông Á.

Chuyên mục RCEP

Menu

Phân tích - Bình luận

Menu

Thư viện hội nhập

thu vien


phong ve thuong mai

Video

Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field
Field

Liên kết

 

Lượt truy cập

007391397
Go to top